Chảy máu não (hay xuất huyết não) gây nguy hiểm nhất trong tai biến mạch máu não vì tử vong cao gấp đôi. Bệnh khởi phát rất đột ngột và dữ dội, có thể ngay sau lúc gắng sức về tâm lý và thể lực hoặc trong lúc đang làm việc, sinh hoạt bình thường mà đột ngột ngã gục xuống, hôn mê, liệt nửa người; thậm chí căn bệnh bộc phát ngay trong giấc ngủ hay khi vừa thức dậy.
Yếu tố nguy cơ gây tai biến mạch máu não thường rất nhiều, có thể do thay đổi lối sống hoặc do việc dùng thuốc, nhưng nguyên nhân chính vẫn do tăng huyết áp(chiếm 50 - 60%). Ở người trẻ, tai biến mạch máu não thường do dị dạng mạch máu não (50% số trường hợp được chụp mạch máu não có dị dạng). Ngoài ra phải kể đến nguyên nhân của việc hút thuốc lá, cholesterol trong máu cao, nghiện rượu, béo phì, ít hoạt động, phụ nữ lạm dụng thuốc tránh thai… Cần phải nhấn mạnh là ngay cả việc huyết áp tăng nhẹ mà không được điều trị đầy đủ cũng làm tăng nguy cơ chảy máu não. Lâm sàng thường gặp 2 thể: chảy máu nhu mô và chảy máu dưới màng nhện.
Phân biệt chảy máu nhu mô não và chảy máu dưới màng nhện
- Chảy máu nhu mô: hay gặp ở tuổi 45 - 50. Dấu hiệu bắt đầu là đau đầu nhiều, đau đột ngột hay xảy ra ban ngày sau một gắng sức thể lực, tinh thần. Bệnh nhân có biểu hiện của rối loạn ý thức, thường suy giảm ý thức nhanh chóng cho đến hôn mê. Đau đầu mức độ bình thường nhưng 70 - 80% bệnh nhân có nôn. Nhịp thở không đều, thở ngáy, mạch nhanh, huyết áp tăng. Trên phim Xquang, siêu âm thấy bờ tim giãn.
- Chảy máu dưới màng nhện: gặp ở tuổi 20 - 40. Dấu hiệu bắt đầu là đau đầu thoáng qua; thường phát đột ngột kèm theo cảm thấy có cú đánh trong đầu, có biểu hiện thay đổi ý thức. Đau đầu thường không dữ dội, có thể có nôn (dưới 50%). Người bệnh thở kiểu cheynstokes, mạch nhanh có khi tới 100 lần/phút. Nghe tim không thấy gì đặc biệt. Huyết áp có hoặc không đo được.
Biểu hiện thường gặp khi bị xuất huyết não
- Diễn biến bên trong: khi xảy ra sự vỡ động mạch não, máu động mạch bị đẩy mạnh ra mô (tổ chức) não ở xung quanh, thành ổ chảy máu đường kính thường lớn hơn 1,5cm ở thân não và hơn 3cm nếu ở đại não. Máu đông lại thành cục máu tụ. Khi có máu tụ sẽ gây ra những tác hại như: choán chỗ và chèn ép những vùng não lân cận làm hoại tử hoặc thiếu máu cục bộ mô não, có thể cả một số nhân não hệ trọng; làm phát triển trạng thái phù trong mô não; tiếp tục lấn chiếm và choán chỗ những khu vực trống, dễ xâm nhập, có thể đến tận vùng nền não thất IV, có nhiều trung tâm của các chức năng quan trọng cho sinh mạng.
- Biểu hiện bên ngoài (lâm sàng) của xuất huyết não là đột qụy như: đang đi hoặc đang làm gì đó bỗng nhiên nhức đầu dữ dội, thường lấy tay ôm đầu, bủn rủn chân tay và ngã chúi xuống một bên; tự nhiên nói khó hẳn đi hoặc cấm khẩu; cả một tay và một chân cùng bên tự nhiên yếu hơn rồi bại dần hoặc nặng hơn thì liệt hẳn (bán thân bất toại) kèm theo liệt nửa mặt, vật vã, đái dầm, đại tiện không tự chủ, tăng tiết đờm dãi và mồ hôi (bên liệt), nhịp thở không đều, rối loạn nhịp tim và huyết áp, sốt. Tri giác vẫn còn hoặc lú lẫn (bất tỉnh nhân sự) ở 50%, hoặc hôn mê sâu ở 25%, hoặc xen kẽ lúc tỉnh lúc mê ở 25%. Bệnh kéo dài. Còn nếu như hồi phục nhanh chóng hoặc hoàn toàn thì không phải xuất huyết não mà chỉ là có thắt mạch mão - là hội chứng thiếu máu cục bộ não thoảng qua.